Một sản phẩm của BEACON MEDIA
Khám phá nhiều hơn với tài khoản
Đăng nhập để lưu trữ và dễ dàng truy cập những bài viết bạn yêu thích trên Bloomberg Businessweek Việt Nam.
Bloomberg Businessweek Vietnam trao đổi cùng hai nữ lãnh đạo từ quỹ và công ty chứng khoán về quy mô, cơ cấu và sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam trong tương lai.
Hình ảnh: BAM Studio
Tác giả: Bloomberg Businessweek Vietnam
28 tháng 07, 2025 lúc 2:15 PM
Tóm tắt bài viết
Bà Nguyễn Hoài Thu từ VinaCapital đánh giá việc Việt Nam gia nhập WTO năm 2007 là cột mốc quan trọng, thu hút hơn 10 tỷ đô la Mỹ vốn ngoại, dù sau đó thị trường tăng trưởng nóng.
Bà Nguyễn Thanh Thảo của Chứng khoán TVS cho rằng năm 2007 là năm bản lề, mở ra kết nối với thế giới, đồng thời eKYC năm 2020 giúp tăng số lượng tài khoản cá nhân lên 10 triệu.
Quy mô vốn hóa thị trường cổ phiếu Việt Nam đạt khoảng 65% GDP, với gần 10 triệu tài khoản, tương đương gần 10% dân số, cho thấy chứng khoán đang dần trở thành kênh đầu tư phổ biến.
Đến giữa năm 2025, thị trường có 1.611 doanh nghiệp niêm yết, vốn hóa trên 306 tỷ đô la Mỹ, tương đương 64% GDP, thanh khoản hàng năm đạt 212 tỷ đô la Mỹ, với 55 doanh nghiệp trên 1 tỷ đô la Mỹ.
Để phát triển thị trường, cần đưa CCP vào vận hành, áp dụng chuẩn mực IFRS, thí điểm cơ chế sandbox cho IPO công nghệ, và TP.HCM có tiềm năng trở thành trung tâm tài chính quốc tế.
Tóm tắt bởi AI HAY
Khi đánh giá về sản phẩm, thời điểm, ý kiến của bên mua có thể khác bên bán. Tuy nhiên, hai vị lãnh đạo quỹ và công ty chứng khoán đều đồng quan điểm về tiềm năng phát triển thị trường chứng khoán.
Bloomberg Businessweek Vietnam có cuộc trao đổi với bà Nguyễn Hoài Thu, phó tổng giám đốc VinaCapital và bà Nguyễn Thanh Thảo, tổng giám đốc, công ty Chứng khoán TVS để cung cấp bước ngoặt đáng nhớ về thị trường, quy mô, cơ cấu, mà còn đề xuất hướng phát triển sản phẩm, cũng như thị trường nói chung trong tương lai.
Trong 25 năm phát triển, bà nhận thấy đâu là dấu mốc mang tính bước ngoặt của thị trường, và lý do bà chọn cột mốc đó?
Nguyễn Hoài Thu:
Theo tôi, cột mốc đáng nhớ nhất của thị trường chứng khoán là khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO năm 2007. Sự kiện này tạo hưng phấn cho nhà đầu tư nước ngoài và thu hút dòng vốn ngoại khổng lồ, ước tính hơn 10 tỉ đô la Mỹ. Dòng tiền này đã kích thích thị trường tăng trưởng nóng, và kéo theo hệ luỵ không nhỏ, khi có nhiều cổ phiếu được định giá lên tới 40-50 lần P/E.
Trở về từ một thị trường phát triển như Singapore, và chứng kiến thị trường Việt Nam đang bùng nổ, các nhà đầu tư cá nhân dồn hết tiền vào thị trường như một cơ hội đổi đời, và các cổ phiếu đều tăng phi mã thì tôi nhận ra những căn cơ và nền tảng tôi học được đều không thể áp dụng ở Việt Nam lúc đó. Từ tháng Ba tới tháng 10 năm 2007, thị trường nhiều lần test mốc 1100 điểm, tăng đáng kể so với mức 752 điểm cuối năm 2006, giao dịch của cổ phiếu niêm yết trên HoSE, HNX lẫn thị trường OTC đều sôi động, có những cổ phiếu được định giá tới 80 lần P/E.
Tôi rút ra bài học rằng khi thị trường tăng nóng thì nhà đầu tư thường bị cuốn theo tâm lý đám đông và bỏ qua các yếu tố nền tảng, nhưng chỉ có đầu tư dựa trên các yếu tố căn bản và giữ vững kỷ luật đầu tư trong mọi hoàn cảnh mới là chìa khóa thành công trong dài hạn.
Nguyễn Thanh Thảo:
Năm 2007 là năm bản lề, mở cửa để Việt Nam kết nối với thế giới. Giai đoạn 2006-2007 cũng là giai đoạn hàng loạt doanh nghiệp lớn, dẫn đầu thị trường lên sàn như Vinamilk, Hoà Phát và tới giờ họ vẫn đang dẫn dắt thị trường, đồng thời có khoảng 70-80 công ty chứng khoán và quỹ đầu tư được thành lập, trong đó có công ty chứng khoán Thiên Việt, tạo ra thanh khoản tốt cho thị trường. Một cột mốc khác, theo tôi, cũng rất đáng nhớ là năm 2020, khi eKYC được đưa vào áp dụng tại hàng loạt ngân hàng và công ty chứng khoán, đưa số lượng tài khoản cá nhân từ hai triệu lên tới 10 triệu tài khoản như hiện nay. Sự phát triển của thị trường chứng khoán phần nào được thể hiện qua số tài khoản và giá trị được gia tăng trên thị trường.
Bà nghĩ gì về quy mô thị trường trong thời gian qua?
Nguyễn Hoài Thu: Quy mô vốn hóa thị trường cổ phiếu tính cả ba sàn tương đương khoảng 65% GDP. Đây là thành tựu ấn tượng cho thị trường tương đối non trẻ như Việt Nam. Với gần 10 triệu tài khoản chứng khoán, xấp xỉ 10% dân số, và số tài khoản hoạt động thường xuyên cũng chiếm 30-40%, chứng khoán đang dần trở thành kênh đầu tư phổ biến. Dù vẫn còn khoảng cách so với các quốc gia phát triển, nhưng những bước tiến trong 25 năm qua là minh chứng rõ nét cho tiềm năng và sự năng động của thị trường này.
Nguyễn Thanh Thảo: Thị trường chứng khoán Việt Nam đã ghi dấu một hành trình tăng trưởng vượt bậc về quy mô, hơn 40 doanh nghiệp niêm yết ban đầu, đến giữa năm 2025 đã mở rộng lên 1.611 doanh nghiệp, với tổng vốn hóa đạt trên 306 tỉ đô la, tương đương 64% GDP. Thanh khoản hàng năm cũng tăng vọt từ khoảng một tỉ đô la thời kỳ đầu lên 212 tỉ USD ở thời điểm hiện tại, phản ánh độ sâu và sức sống của dòng vốn trên thị trường. Số doanh nghiệp có vốn hóa trên một tỉ đô la đã tăng lên 55 doanh nghiệp – cho thấy tầng lớp bluechip đang hình thành vững chắc. Một đặc điểm đáng chú ý của thị trường Việt Nam là tỷ trọng giao dịch cá nhân chiếm tới 80–90% giá trị hàng ngày – khác biệt với các thị trường phát triển vốn do nhà đầu tư tổ chức chi phối.
Có ý kiến cho rằng phát triển nhanh về quy mô, nhưng chậm về chất lượng – về cấu trúc thị trường, tính minh bạch hay bluechips. Quan điểm của bà thế nào?
Nguyễn Hoài Thu: Trong 25 năm phát triển, thị trường đã quy tụ được các doanh nghiệp hàng đầu, trong đó có những công ty thuộc nhóm lớn nhất Đông Nam Á. Gần 40 doanh nghiệp đạt doanh thu tỉ đô la Mỹ. Từ hơn 1.600 mã cổ phiếu trên ba sàn, sau khi sàng lọc theo tiêu chí cơ bản và hiệu suất sinh lời, chúng tôi chọn được 120–150 cổ phiếu tương đối tốt để đầu tư. Điều này cho thấy sự trưởng thành và tiềm năng của thị trường, dù vẫn còn nhiều thách thức.
Nguyễn Thanh Thảo: Quy mô thị trường đã mở rộng mạnh mẽ, nhưng để bứt phá lên tầm khu vực, chất lượng thị trường vẫn còn nhiều dư địa cải thiện.
Top 10 công ty lớn nhất chiếm tới 40% vốn hóa – phản ánh sự tập trung cao và thiếu đa dạng ngành nghề khi nhóm tài chính (chứng khoán – ngân hàng – bảo hiểm – bất động sản thương mại) chiếm đến 60–70% vốn hóa toàn thị trường.
Trong 5 năm qua, gần như không có IPO lớn nào, khiến quá trình hình thành thêm các doanh nghiệp đầu ngành (bluechips) mới còn chậm. Dòng vốn tổ chức và nước ngoài vẫn ở mức khiêm tốn khi Fund AUM chỉ đạt khoảng 6,5% GDP, thấp hơn Thái Lan hay Malaysia.
Tỷ trọng giao dịch của nhà đầu tư tổ chức tại Việt Nam cũng chỉ chiếm khoảng 10–15%, thấp hơn đáng kể so với mức trung bình trên 50% tại các thị trường trong khu vực như Singapore hay Hong Kong. Tuy vậy, danh mục IPO trị giá 47,5 tỉ USD đang được chuẩn bị – với những cái tên như Thaco Auto, Masan, TCBS, VNLIFE, ACV – sẽ là động lực tăng trưởng mới cho thị trường.
Bà đề xuất thị trường cần thay đổi thế nào?
Nguyễn Hoài Thu: Để thu hút thêm nhà đầu tư nước ngoài, thị trường cần phát triển cả về quy mô lẫn chất lượng.
Về quy mô, Chính phủ đặt mục tiêu đưa vốn hóa thị trường vượt 100% GDP. Về chất lượng, cần thêm nhiều doanh nghiệp niêm yết ở các ngành khác nhau, đặc biệt là doanh nghiệp lớn đủ sức hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài. Hiện tại, nhóm ngân hàng và bất động sản gộp lại chiếm khoảng 60% vốn hóa thị trường, mức độ tập trung còn cao.
Ở góc độ quản lý quỹ, tôi mong thị trường có thêm nhiều “hàng hoá” chất lượng, sao cho mức độ đa dạng của hàng hoá có thể phản ánh đúng được sự phát triển của nền kinh tế. Ngoài ra, chất lượng quản trị doanh nghiệp cũng cần cải thiện, đặc biệt sau khi thị trường được nâng hạng để tăng cường niềm tin và sức hút với nhà đầu tư quốc tế.
Bà đánh giá thế nào về tiềm năng phát triển của thị trường trái phiếu doanh nghiệp? Làm thế nào để đa dạng hóa sản phẩm và giữ vững niềm tin nhà đầu tư?
Nguyễn Thanh Thảo: Tôi tin rằng trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) còn rất nhiều tiềm năng. Tín dụng ngân hàng tại Việt Nam hiện chiếm khoảng 140% GDP, gần như cao nhất châu Á nhưng thị trường trái phiếu chỉ chiếm khoảng 30% GDP (TPDN chỉ chiếm khoảng 10%).
Khu vực tư nhân mỗi năm cần khoảng 25-30 tỉ USD mỗi năm cho vốn trung và dài hạn, vượt quá khả năng cung ứng bền vững của các ngân hàng tại Việt Nam. Vì thế, trái phiếu doanh nghiệp đóng vai trò vô cùng quan trọng để cân đối cơ cấu vốn và giảm rủi ro cho hệ thống tài chính.
Xét về sản phẩm, thị trường trái phiếu còn rất sơ khai, chủ yếu là trái phiếu thường (vanilla bonds). Thời gian tới, thị trường cần đa dạng hoá sản phẩm, từ trái phiếu xanh, trái phiếu chuyển đổi… để đáp ứng khẩu vị rủi ro đa dạng của nhà đầu tư.
Về niềm tin thị trường, sau những vụ việc xảy ra từ cuối 2022, đã có nghị định 65 để thay thế nghị định 63 năm 2020 siết chặt hơn các điều kiện phát hành và minh bạch thông tin. Sự xuất hiện các tổ chức xếp hạng tín nhiệm trong nước sẽ là bước đệm quan trọng để nâng cao tiêu chuẩn thị trường và thu hút dòng vốn chất lượng. Với sự hoàn thiện hơn về pháp lý, sản phẩm và định chế trung gian, thị trường TPDN đang từng bước trở thành trụ cột huy động vốn dài hạn, minh bạch và hiệu quả cho nền kinh tế Việt Nam.
Nguyễn Hoài Thu: Nhìn từ góc độ nhà đầu tư tổ chức, quy mô thị trường trái phiếu hiện còn khiêm tốn, với trái phiếu chính phủ đạt khoảng 19% GDP và trái phiếu doanh nghiệp dưới 10% GDP. Ở thời điểm đỉnh cao, thị trường trái phiếu doanh nghiệp từng đạt gần 20% GDP, nhưng đó là hệ quả của một giai đoạn tăng trưởng nóng từ năm 2017, dẫn đến sự đổ vỡ vào năm 2022. Khi đó, quy mô thị trường co lại còn khoảng 9% GDP, nhiều nhà phát hành không giữ được cam kết trả nợ.
Về dài hạn, nếu không muốn tỷ lệ tín dụng/GDP bị đẩy lên ngưỡng 150–170%, một mối lo ngại lớn đối với nhà đầu tư nước ngoài, thì thị trường trái phiếu doanh nghiệp cần phát huy vai trò cung cấp vốn trung và dài hạn cho khu vực tư nhân, qua đó giảm áp lực cho hệ thống ngân hàng.
Cải cách toàn diện thị trường tài chính, tái cơ cấu thị trường vốn – từ cổ phiếu đến trái phiếu – là yêu cầu cấp thiết. Điều cốt lõi là nâng cao chất lượng công bố thông tin, tính minh bạch và trách nhiệm của tổ chức phát hành. Việc bắt buộc xếp hạng tín nhiệm cho trái phiếu niêm yết, cùng với tăng cường giám sát và vai trò trung gian của các định chế tài chính chuyên nghiệp như ngân hàng đầu tư, công ty chứng khoán, sẽ góp phần củng cố niềm tin.
Song song đó, phát triển thị trường thứ cấp để tăng thanh khoản là yếu tố không thể thiếu, giúp nhà đầu tư yên tâm tham gia. Cuối cùng, cần xây dựng hệ sinh thái nhà đầu tư đa dạng, thúc đẩy vai trò của các nhà đầu tư tổ chức như quỹ đầu tư, quỹ bảo hiểm, quỹ hưu trí – những “cầu” khó tính sẽ thúc đẩy hình thành những nguồn “cung” chất lượng hơn, góp phần phát triển thị trường bền vững.
Bà sẽ đề xuất cụ thể gì để phát triển thị trường chứng khoán trong 3-5 năm tới?
Nguyễn Hoài Thu: Uỷ ban chứng khoán Nhà nước cũng nhận thấy tỷ lệ 85-90% giao dịch hàng ngày đến từ nhà đầu tư cá nhân trong nước là một yếu tố không bền vững. So sánh với thị trường Mỹ, tỉ lệ này khoảng 18%, vì vậy cần có sự thay đổi trong cấu trúc nhà đầu tư để tạo sự ổn định.
Thị trường cần thu hút thêm nhà đầu tư tổ chức, cả trong và ngoài nước, đồng thời khuyến khích các chiến lược đầu tư dài hạn cho các nhà đầu tư cá nhân nhằm giảm thiểu rủi ro và xây dựng một thị trường bền vững hơn.
Thị trường quản lý tài sản hiện nay chưa phản ánh đúng sự phát triển của nền kinh tế, do cơ chế chưa đủ sự hỗ trợ. Thị trường quản lý tài sản lớn thứ hai trên thế giới hiện là Trung Quốc, cũng chỉ mới trải qua giai đoạn phát triển bùng nổ trong thập niên 2010, khi GDP bình quân đầu người bắt đầu cán mốc 4.500 đô la. Trong khi đó, hiện nay GDP bình quân đầu người của Việt Nam đã đạt khoảng 4.800 đô la, nhưng sự phát triển của ngành quỹ ở nước ta vẫn còn hạn chế.
Điều giúp ngành quản lý quỹ ở Trung Quốc thời đó phát triển mạnh là một loạt cải cách thể chế, giúp cho cho người dân đầu tư với mức sinh lời hấp dẫn hơn so với lãi suất tiết kiệm. Ở Việt Nam, ngân hàng Nhà nước hiện chưa cho phép ngân hàng bán chứng chỉ quỹ. Đây là một rào cản tương đối lớn.
Nếu ngành quản lý tài sản được tạo cơ hội để phát triển thì tỉ lệ tham gia của nhà đầu tư tổ chức trên thị trường chứng khoán có thể dễ dàng tăng lên. Xuất phát từ nhu cầu đa dạng hoá tài sản và yêu cầu lợi suất cao hơn kênh truyền thống, người dân gửi tiền vào các quỹ chuyên nghiệp, các nhà quản lý quỹ dùng tiền đó mua cổ phiếu hoặc trái phiếu, qua đó cấp vốn cho doanh nghiệp phát triển. Trên thế giới, các quỹ đầu tư và quỹ hưu trí tự nguyện là kênh dẫn vốn rất quan trọng với tất cả các nền kinh tế.
Nguyễn Thanh Thảo: Có ba cải cách cốt lõi sẽ tạo bước ngoặt cho thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian tới. Thứ nhất, đưa trung tâm thanh toán Bù trừ (CCP) vào vận hành sẽ giúp giảm rủi ro đối tác và mở đường rút ngắn chu kỳ thanh toàn từ T+2 xuống T+1, thậm chí T+0, đây là điều kiện cần để Việt Nam có thể dỡ bỏ cơ chế prefunding một cách an toàn và minh bạch hơn.
Thứ hai, cần áp dụng chuẩn mực IFRS (chuẩn mực kế toán quốc tế) đối với các doanh nghiệp niêm yết sẽ nâng cao tính minh bạch báo cáo tài chính, tạo nền tảng thu hút dòng vốn tổ chức và hỗ trợ nâng hạng thị trường.
Cuối cùng là thí điểm cơ chế sandbox cho các thương vụ IPO công nghệ và đổi mới sáng tạo, học hỏi từ mô hình Chapter 18C tại Hong Kong hay SPAC tại Singapore, sẽ tạo ra làn sóng IPO chất lượng cao trong tương lai gần. Nếu triển khai đồng bộ, các cải cách này sẽ giúp Việt Nam không chỉ mở rộng về quy mô, mà còn bứt phá về chất lượng – sẵn sàng hội nhập sâu hơn vào hệ thống tài chính toàn cầu.
Tiềm năng của Việt Nam để trở thành một trung tâm tài chính ở tầm khu vực trong 3-5 năm tới, theo bà?
Hong Kong và Singapore – hai trung tâm tài chính hàng đầu châu Á – phát triển dựa trên lợi thế vị trí và chức năng rõ ràng: Nằm cạnh các cụm cảng lớn, kết nối mạnh với thương mại toàn cầu và dòng vốn xuyên biên giới. Hong Kong là cửa ngõ IPO cho Trung Quốc, trong khi Singapore dẫn đầu về quản lý tài sản và sản phẩm phái sinh.
TP.HCM - địa phương được lựa chọn trở thành trung tâm tài chính quốc tế (IFC) trong tương lai – đang hội đủ điều kiện tương tự: gần các cụm cảng trọng điểm như Cát Lái, Hiệp Phước, Cái Mép – Thị Vải và đang tăng tốc hạ tầng sẽ giúp nâng cao lợi thế cạnh tranh về kết nối thương mại và dòng vốn quốc tế. Về cơ cấu thị trường chứng khoán, sàn HOSE chiếm tới xấp xỉ 80% vốn hóa và hơn 90% giá trị giao dịch toàn thị trường.
Tuy nhiên, Việt Nam vẫn là thị trường cận biên và đối mặt nhiều thách thức: Tuổi đời thị trường chứng khoán mới 25 năm, khung pháp lý cho các sản phẩm mới như SPAC, tài sản số, và hạ tầng còn đang trong quá trình hoàn thiện. Các sản phẩm cần phải đa dạng hoá rất nhiều và có chiều sâu. Ngoài ra, một trong những yếu tố quan trọng là đào tạo, phát triển và tuyển dụng nhân sự cho IFC cần mất nhiều thời gian để đáp ứng được tiêu chuẩn quốc tế.
Với lộ trình cải cách rõ ràng – như triển khai hệ thống KRX, tài khoản tổng, cùng nguồn cung IPO dồi dào và sự hậu thuẫn từ chính phủ, thị trường Việt Nam đang từng bước thu hẹp khoảng cách. Nếu tiếp tục nâng cao chất lượng quản trị và thu hút dòng vốn tổ chức, Việt Nam hoàn toàn có thể trở thành nền tảng cốt lõi cho một trung tâm tài chính khu vực trong 5–10 năm tới.
Theo phattrienxanh.baotainguyenmoitruong.vn
https://phattrienxanh.baotainguyenmoitruong.vn/25-nam-chung-khoan-viet-nam-nhin-lai-de-buoc-toi-53940.html
Tặng bài viết
Đối với thành viên đã trả phí, bạn có 5 bài viết mỗi tháng để gửi tặng. Người nhận quà tặng có thể đọc bài viết đầy đủ miễn phí và không cần đăng ký gói sản phẩm.
Bạn còn 5 bài viết có thể tặng
Liên kết quà tặng có giá trị trong vòng 7 ngày.
BÀI LIÊN QUAN
Gói đăng ký
Truy cập nhanh
Giấy phép thiết lập trang thông tin điện tử tổng hợp trên mạng số 30/ GP-STTTT do Sở Thông Tin và Truyền Thông thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 24/12/2024
Chịu trách nhiệm nội dung: Ông Võ Quốc Khánh
Trụ sở: Lầu 12A, số 412 Nguyễn Thị Minh Khai, phường Bàn Cờ, Thành phố Hồ Chí Minh
Điện thoại: (028) 8889.0868
Email: bientap@bloombergbusinessweek.vn
© Copyright 2023-2025 Công ty Cổ phần Beacon Asia Media