Tháng 6.2024, Sembcorp Solar Vietnam
thông báo hoàn tất mua lại phần lớn vốn
góp tại ba công ty con thuộc tập đoàn
Gelex trong lĩnh vực năng lượng tái tạo. Sau
giao dịch này, công ty con của Sembcorp -
tập đoàn Singapore do Temasek Holdings
nắm giữ 49% vốn sở hữu - bổ sung 196
MW công suất từ các dự án điện mặt trời
và gió đang hoạt động vào danh mục đầu
tư. Sembcorp không phải là doanh nghiệp
nước ngoài duy nhất tham gia mua lại các dự án năng lượng tái tạo ở Việt Nam.
Acen, công ty thuộc tập đoàn Ayala của
tỉ phú người Philippines Jaime Zobel de
Ayala, hoàn tất mua lại mảng kinh doanh
năng lượng mặt trời của Super Energy,
doanh nghiệp Thái Lan có nhiều dự án
năng lượng tái tạo tại Việt Nam, với giá
trị ước tính 165 triệu đô la Mỹ.
Những thương vụ mua bán và sáp nhập
(M&A) từ các tập đoàn lớn trong khu vực
phần nào cho thấy thị trường năng lượng
đang trở lại sau giai đoạn phát triển “nóng”
2019-2021. Theo dữ liệu từ Bloomberg ,
thị trường năng lượng tái tạo ghi nhận 13
thương vụ M&A giai đoạn 2016-2018. Con
số này tăng gấp đôi trong ba năm tiếp
theo. Riêng năm 2021 - thời điểm chính
sách giá mua điện ưu đãi (giá FIT) kết
thúc, có tới 15 thương vụ M&A mảng năng
lượng diễn ra. Tuy nhiên, số lượng và quy
mô các dự án phát triển mới lại sụt giảm,
đặt ra câu hỏi quan trọng: Phải chăng thị
trường năng lượng tái tạo không còn hấp
dẫn như trước?
Nếu xét về nhu cầu tiêu thụ, thị trường
năng lượng tái tạo của một quốc gia
trong quá trình công nghiệp hoá như
Việt Nam còn nhiều tiềm năng. Trong giai
đoạn 2018-2030, mỗi năm Việt Nam cần
lắp đặt thêm 5 GW công suất mới, theo
ước tính của ngân hàng Thế giới (World
Bank) để đáp ứng mục tiêu tăng trưởng
kinh tế. Dự kiến tới năm 2030, tổng công
suất lắp đặt nguồn điện của Việt Nam đạt
150.489 GW, với tổng vốn đầu tư 134,7 tỉ
đô la Mỹ cho giai đoạn 2021-2030, theo
quy hoạch phát triển Điện lực quốc gia
thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn tới 2050
(Quy hoạch Điện VIII). Trong đó, công
suất huy động từ điện gió là 27.880MW,
chiếm khoảng 18,5%, điện mặt trời sẽ đóng
góp 12.836 MW, tương đương 4,5% tổng
công suất nguồn. Đây là những chất xúc
tác đáng kể cho các dự án năng lượng
tái tạo phát triển. Nhu cầu là vậy, song
theo ông Lê Trung Nam, tổng giám đốc
EPS Investing, thị trường năng lượng tái
tạo của Việt Nam đang chững lại, người bán nhiều hơn người mua.
Lắp đặt tua bin gió ngoài khơi tại Ninh Thuận. Hình ảnh: Shutterstock
Hiện trạng của thị trường năng lượng
tái tạo được lý giải bởi hai vấn đề chính.
Đầu tiên, cơ chế giá FIT cũ chỉ được áp
dụng trong khoảng thời gian ngắn. Thời
gian áp dụng hơn hai năm với điện mặt
trời và ba năm với điện gió, khiến doanh nghiệp khó hoàn thành các thủ tục cần
thiết. Báo cáo Doing Business năm 2020
từ World Bank cho thấy, chỉ riêng thời
gian làm thủ tục cho một dự án tại Việt
Nam mất khoảng 213 ngày - tức hơn bảy
tháng. Cần lưu ý, hơn một nửa thời gian
cơ chế giá FIT được áp dụng rơi vào giai
đoạn 2020-2021 - thời điểm chính phủ
áp dụng các quy định phòng chống dịch
Covid-19, phần nào ảnh hưởng tới tiến độ
thực hiện dự án.
Chưa kể, thời gian ngắn hạn áp dụng
cơ chế giá vô hình tạo ra cuộc đua giữa
các nhà đầu tư, mà phần lớn là doanh
nghiệp trong nước, nhằm đưa dự án vào
vận hành thương mại (COD) trước khi
chính sách giá này hết hiệu lực. Song,
không phải nhà đầu tư nào cũng có đủ
năng lực về kinh nghiệm lẫn tài chính để
đi cùng dự án tới hết vòng đời. Đặc thù
của ngành năng lượng tái tạo, theo ông
Nguyễn Hữu Quang, giám đốc mảng năng
lượng sạch tại quỹ đầu tư Dragon Capital,
là dự án thường sẽ có nhiều nhà đầu tư
trong cả vòng đời. Mỗi nhà đầu tư tham
gia vào một giai đoạn tùy vào năng lực
tài chính, khẩu vị rủi ro. Tình huống nhà
đầu tư tham gia vào thời điểm đầu tiên
để phát triển dự án, rồi chuyển nhượng
lại sau khi dự án đi vào vận hành trong
ngành năng lượng tái tạo, như ông Quang
mô tả là “chuyện bình thường”.
Tuy nhiên, trong hai năm qua, số lượng
người bán vượt số người mua. “Năng lượng
tái tạo là cuộc chơi cần rất nhiều tiền, phần
lớn doanh nghiệp Việt Nam phải vay ngân
hàng nếu muốn đi tiếp,” ông Nam phân
tích. Gần ba năm trôi qua mà câu trả lời
về khung giá mới vẫn còn bỏ ngỏ, khiến
doanh nghiệp không thể chờ và buộc phải
sang tay dự án, bởi không “gồng lỗ” nổi.
Quan sát danh sách mười doanh nghiệp
đứng đầu về số lượng và công suất dự án
đang vận hành sẽ thấy ngay chân dung
những nhà phát triển dự án: Các công ty
có mảng kinh doanh cốt lõi là năng lượng,
muốn mở rộng danh mục đầu tư. Một số
cái tên quen thuộc: Công ty cổ phần Cơ
Điện lạnh (REE), công ty Điện lực Gia
Lai (GEG) hay tập đoàn PC1. Nhóm thứ
hai cũng năng động trong cuộc chơi là
doanh nghiệp đa ngành, muốn chuyển
sang mảng kinh doanh khác, hoặc nhìn
thấy cơ hội từ thị trường mới, như tập đoàn
Trung Nam hay T&T Group. Phần lớn nhà phát triển dự án là doanh nghiệp
trong nước, có lợi thế khi hiểu rõ về thị
trường nội địa, quy trình liên quan tới cơ
quan chính sách, và cung cách làm việc
với địa phương - điều quan trọng khi triển
khai dự án ở nhiều tỉnh, thành.
Tuy nhiên, năng lượng tái tạo là một
cuộc chơi dài hơi, đòi hỏi người chơi không
chỉ có kinh nghiệm để xin giấy phép và
đăng ký, mà còn phải trang bị cả nguồn
lực về tài chính, nhân sự lẫn kinh nghiệm
vận hành dự án dài hạn. Đó là lúc doanh
nghiệp nước ngoài xuất hiện, “bởi họ
có vốn nhiều nên chấp nhận lợi nhuận
khoảng 10-12%/năm, nhưng ổn định,”
theo lời ông Nguyễn Hữu Quang. Thái
Lan và Philippines hiện là nhà đầu tư lớn
trong mảng năng lượng tái tạo, kế đó là
châu Âu, nhưng chưa nhiều, theo quan
sát của ông Quang.
Theo dữ liệu từ hơn 700 dự án năng
lượng tái tạo ở nhiều giai đoạn (vận hành,
xây dựng, có giấy phép, đã công bố) tại
Việt Nam do Bloomberg tổng hợp, công
suất của các dự án năng lượng tái tạo
được công bố lên tới hơn 55.265 MW,
gấp 3,5 lần công suất các dự án đang
vận hành. Đáng chú ý, trong tốp 10 doanh
nghiệp sở hữu các dự án đang vận hành
có công suất lớn nhất, số lượng doanh
nghiệp trong nước áp đảo. Nhưng về
tương lai, bảy trong số 10 cái tên công bố
các dự án năng lượng tái tạo lớn nhất là
nhà đầu tư nước ngoài (FDI).
“Lợi thế của doanh nghiệp FDI nằm ở
kinh nghiệm tích lũy được trong thập kỷ hoạt động trong lĩnh vực năng lượng tái
tạo,” ông Nguyễn Phan Đính, giám đốc
quốc gia Việt Nam của EDP Renewables
(EDPR), tập đoàn năng lượng có trụ sở
ở Bồ Đào Nha chia sẻ với Bloomberg
Businessweek Việt Nam . EDPR hiện
điều hành các dự án có tổng công suất
1.300 MW tại khu vực châu Á - Thái
Bình Dương, trong đó bốn dự án điện
mặt trời trang trại và 10 cụm điện mặt
trời áp mái tại Việt Nam có công suất
550 MW, đóng góp 40% công suất của
toàn khu vực.
Chính sách giá ưu đãi ngắn hạn đã gây
ra hậu quả về cả pháp lý lẫn chi phí. Để
kịp thời hạn, nhà phát triển có thể phải
chi nhiều hơn dự kiến, và gánh thêm cả
rủi ro về pháp lý khi nhà điều hành đang
kiểm tra lại hàng loạt dự án đã được vận
hành thương mại. Hình dung đơn giản, có
dự án đã đáp ứng được 90% quy định về
pháp lý, nhưng 5-10% còn lại có thể “cày
rất lâu mà không gỡ được,” ông Nam chia
sẻ. Những rào cản về pháp lý và giá cả
khiến các bên mua e dè. “Người ở trong
thì giãy giụa, người ngoài thì đứng chờ
không dám vào,” theo lời ông Nam. Trong
khi chờ đợi nút thắt chính sách được gỡ,
thị trường tự sàng lọc.
Mặc dù vấn đề chính sách không thể
giải quyết ngay, điều này không cản trở
tầm nhìn dài hạn của các doanh nghiệp
FDI, đặc biệt là những tập đoàn có bề
dày hoạt động trong ngành. Đại diện
AES Việt Nam, doanh nghiệp Mỹ đã
đầu tư vào lĩnh vực năng lượng tại Việt
Nam hơn 12 năm nhấn mạnh tiềm năng tăng trưởng của
công suất nguồn
lắp đặt khoảng
6.000 MW/năm
để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ điện tăng khoảng 10-12%
mỗi năm cho đến năm 2030 ở đất nước
hình chữ S. “Quy hoạch Điện VIII cũng đã
nhắc tới mục tiêu vận hành hơn 22.000
MW điện khí hoá lỏng (LNG) từ mức cơ sở
0 hiện nay,” đại diện AES viết vậy trong
thư điện tử. Con số này gấp khoảng 3,5
lần công suất dành cho điện gió ngoài
khơi, dù cùng xuất phát điểm là 0. Tương
tự, ông Đính từ EDPR đánh giá cao nỗ
lực của chính phủ trong nỗ lực thu hút
đầu tư, điển hình là các quyết định mới
về cơ chế mua bán điện trực tiếp vào
tháng Bảy vừa qua.
Giám đốc quốc gia tại Việt Nam của
EDPR cho biết họ đang tiếp tục xúc tiến
một vài dự án năng lượng tái tạo ở Việt
Nam, với mục tiêu góp phần nâng tổng
công suất tại khu vực châu Á- Thái Bình
Dương lên 5.000 MW vào năm 2030.
Trong khi đó, AES công bố khoản đầu
tư hơn ba tỉ đô la Mỹ vào hai dự án Kho
cảng LNG Sơn Mỹ và Nhà máy nhiệt tua
bin khí chu trình hỗn hợp Sơn Mỹ 2 tại
Bình Thuận, nhằm hỗ trợ Việt Nam đa
dạng hoá cơ cấu năng lượng và nhu cầu
tiêu thụ điện ngày càng tăng của quốc
gia. Thông qua liên doanh cùng Siemens
mang tên Fluence, họ đang sản xuất pin
tích năng (BESS) tại Việt Nam.
Triển vọng của thị trường, theo ông
Nam, “đi vào nề nếp” sau giai đoạn “trăm
hoa đua nở”. Từ góc nhìn của ông Đính, vị
giám đốc nhận xét các doanh nghiệp sẽ
đầu tư bài bản, kỷ luật hơn. Điểm chung
của người mới tham gia vào cuộc chơi ở
Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực điện gió
ngoài khơi, qua hình dung của ông Đính
là những cái tên đã có kinh nghiệm trong
ngành ở nhiều nước, có tầm nhìn dài hạn
và sẵn sàng phối hợp với các đối tác trong
nước để cùng phát triển.
Về dài hạn là vậy, còn trước mắt? Hoạt
động đầu tư vào năng lượng tái tạo của
Dragon Capital năm nay đang dừng, do
quỹ đầu tư vào điện vì sự ổn định và rủi
ro pháp lý. “Chừng nào pháp lý chưa rõ
ràng, chưa khiến nhà đầu tư yên tâm
thì chưa thể đầu tư,” ông Nguyễn Hữu
Quang nói.