Paul Volcker cảm thấy mình bị lãng quên đôi chút cuối năm 2017 khi bắt đầu thực hiện cuốn hồi ký mà tôi sẽ viết giúp ông. Lạm phát không còn đáng sợ, khủng hoảng tỉ giá hối đoái không còn thu hút nhiều chú ý, và chiến dịch cải thiện quản lý hành chính công từ lâu của ông dường như quá viển vông. Vì vậy, vị cựu lãnh đạo 90 tuổi của cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) bắt đầu cuốn hồi ký bằng hình ảnh tự trào: con vẹt già khôn ngoan tượng trưng cho "chủ tịch", và khăng khăng tựa đề phải là The Wise Old Parrot Speaks (Con vẹt già khôn ngoan lên tiếng).
Đương nhiên, nhân viên tiếp thị của nhà xuất bản không ưng cái tên này. Cuối cùng, tôi đưa ra cụm từ "cam kết được duy trì" được ghi trong một số biên bản của Fed. Khuôn mặt Volcker sáng lên khi ông nói bằng ngôn ngữ bình dị: "Cứ tiếp tục!" Vậy là, tên cuốn hồi ký ra đời như thế.
Ngày nay, mọi người đều muốn biết liệu Fed có thể kiểm soát lạm phát hay không, và nếu có, thì mất bao lâu. Chủ tịch Jerome Powell, muốn thể hiện rằng mình làm chủ tình hình, nói Fed sẽ "cứ tiếp tục" cho đến khi công việc hoàn thành. Câu nói ba từ này, theo một số người theo dõi Fed lâu năm, cho là khơi dậy tinh thần của người được coi là chủ tịch ngân hàng trung ương vĩ đại nhất mọi thời đại. Tuy nhiên, trong khi Volcker được ca ngợi vì kiểm soát được lạm phát, ít người nhớ cuộc chiến đó khó khăn như nào và nền kinh tế phải chịu đựng bao nhiêu đau đớn ra sao. Để thấy được thách thức phía trước dành cho Powell, sẽ hữu ích khi nhìn lại đường tới vinh quang đầy gập ghềnh của Volcker. Tháng 8 năm 1979, khi Tổng thống Jimmy Carter bổ nhiệm Volcker làm chủ tịch, Fed đang đối mặt với một cuộc khủng hoảng. Volcker đã chứng kiến hai người tiền nhiệm, Arthur Burns và Bill Miller, mất hết uy tín do không đối phó được với giá cả tăng cao, khiến "tâm lý lạm phát” ăn sâu trong đầu công chúng Mỹ.
Mười ngày đầu tiên trong nhiệm kỳ của Volcker, ủy ban Thị trường mở liên bang tăng lãi suất chiết khấu thêm 50 điểm cơ bản, lên mức kỷ lục 10,5%, và một tháng sau, lại tăng lãi suất. Nhưng tỉ lệ biểu quyết cho lần tăng thứ hai là 4-3. Thị trường coi sự chia rẽ trong ủy ban là dấu hiệu cho thấy Volcker đang mất đi sự ủng hộ. Hãng tin AP dẫn lời Lawrence Kudlow, khi đó là nhà kinh tế tại Bear Stearns — gần đây là cố vấn kinh tế cho cựu Tổng thống Donald Trump — nói cuộc bỏ phiếu “cho thấy rõ ràng rằng các điều chỉnh chính sách trong tương lai sẽ dè dặt.” Thị trường có vẻ đồng tình. Đồng đô la giảm và giá vàng tăng, dấu hiệu thị trường đặt cược lạm phát tiếp tục tăng cao.
Cuối tháng 9, Volcker dự hội nghị ở Belgrade, nơi ông nghe Burns trình bày bài phát biểu "Nỗi khốn khổ của ngân hàng trung ương", tuyên bố rằng các ngân hàng trung ương không thể áp dụng chính sách cứng rắn cần thiết để chống lạm phát vì sự phản đối trong xã hội và chính trường. Trở lại Washington, Volcker quyết tâm chứng minh Burns đã sai.
Để làm được điều này, ông chuyển sang chủ nghĩa trọng tiền, lý thuyết được nhà kinh tế Milton Friedman tán thành, ủng hộ việc ngân hàng trung ương kiểm soát lạm phát bằng cách hạn chế nguồn cung tiền sẵn có trong nền kinh tế dành cho thanh toán hàng hóa và dịch vụ, thay vì tăng lãi suất.
Khi còn là nhà kinh tế trẻ tại Fed chi nhánh New York, Volcker và nhiều đồng nghiệp coi cách tiếp cận máy móc như vậy là ngây thơ và sai lầm. Nhưng trong các lá thư ông viết khi trở thành chủ tịch Fed, bao gồm bức gửi cho Friedman, rõ ràng ông hiểu nhược điểm chính của chủ nghĩa trọng tiền — trói tay các nhà hoạch định chính sách — có thể trở thành ưu điểm khi đảm bảo với thị trường rằng Fed sẽ không, và thực sự không thể, lùi bước.
Chiều ngày 6 tháng 10 năm 1979, tại cuộc họp báo đột xuất sau này được gọi là “đêm thứ Bảy đặc biệt”, Volcker công bố chiến lược mới của Fed: tập trung hạn chế lượng tiền lưu thông, bất kể ảnh hưởng đến lãi suất ra sao. Thị trường phản ứng rất nhanh chóng: Cổ phiếu sụt giảm, lãi suất ngắn hạn và dài hạn tăng lên mức kỷ lục. Trên trang nhất tờ New York Times
ngày 10 tháng 10 trích lời trưởng bộ phận giao dịch trái phiếu một công ty lớn: “Tôi không nhớ có ngày giao dịch nào mà mọi thị trường đều suy sụp nghiêm trọng đến mức này.” Và đó mới chỉ là khởi đầu. Cuối cùng, mức trung bình lãi suất vay dài hạn 30 năm vượt hơn 18%.
Lãi suất tăng vọt khiến nông dân tức giận, họ phong tỏa trụ sở của Fed ở Washington bằng máy kéo. Công nhân xây dựng gửi cho Volcker những mẩu gỗ khắc thông điệp giận dữ. Chủ doanh nghiệp không tin cách tiếp cận này dập tắt được lạm phát, đang ở mức trên 11% năm 1979 và tăng lên 13% năm 1980. Volcker nhớ lại cuộc họp với một nhóm giám đốc, một trong số họ nói với ông rằng anh ta vừa đồng ý tăng lương cho công nhân, tăng 13% hằng năm trong ba năm tới.
Tổng thống Carter cố gắng giúp đỡ, kết quả mang lại cả tốt lẫn xấu. Tháng 3 năm 1980, tổng thống tuyên bố cắt giảm một loạt chi tiêu để cân bằng ngân sách. Hành động này được hoan nghênh. Điều Volcker và các đồng nghiệp tại Fed không thích — nhưng miễn cưỡng công khai ủng hộ — là quyết định áp đặt "kiểm soát tín dụng", về cơ bản, là đặt ra hạn mức lượng tiền mà ngân hàng có thể cho vay và người dân có thể vay. Người Mỹ, mong muốn thể hiện sự ủng hộ, cắt thẻ tín dụng và gửi chúng đến Nhà Trắng. Hậu quả là, như Volcker viết trong hồi ký, nguồn cung tiền giảm đột ngột và cuộc suy thoái “nhân tạo” bắt đầu. Fed buộc phải nhanh chóng đảo ngược chính sách, nới lỏng khả năng tiếp cận tiền và tín dụng, trước khi tiếp tục cuộc chiến chống lạm phát vào mùa thu năm 1980.
Giữa năm 1981, nền kinh tế Mỹ lại rơi vào cuộc suy thoái khác, tồi tệ nhất kể từ cuộc Đại Suy thoái. Tỉ lệ thất nghiệp tăng lên 11%. Sự chỉ trích nhắm vào Fed ngày càng mạnh mẽ. Fed yêu cầu vị chủ tịch cao 2m chấp nhận “sự bảo vệ an ninh cá nhân”: một vệ sĩ. Một năm sau, một người đàn ông có vũ khí đã bị bắt khi đột nhập Fed và đe dọa bắt hội đồng thống đốc làm con tin. Tiếng la hét của người biểu tình đôi khi làm gián đoạn bài phát biểu của Volcker. Một số hạ nghị sĩ đe dọa luận tội ông. Trong hồi ký, Volcker viết rằng chủ nghĩa trọng tiền giúp ông và đồng nghiệp tại Fed không xuôi theo các chỉ trích, bởi vì họ đã “bị trói tay vào cột buồm” như đoàn thủy thủ của Odyssey.
“Tôi nghĩ nếu có nhà tiên tri xứ Delphi nào rỉ tai rằng chính sách của chúng tôi sẽ khiến lãi suất ở mức 20% hoặc hơn, tôi đã thu dọn hành lý và về nhà rồi,” ông viết. “Nhưng chẳng có chuyện như thế. Chúng tôi cần gửi một thông điệp, cho công chúng và cho chính mình.”
Mùa hè năm 1982, lạm phát trở lại mức một con số. Lo ngại rủi ro vỡ nợ của chính quyền Mexico và các quốc gia Mỹ Latinh khác ảnh hưởng đến hệ thống ngân hàng Mỹ (vốn cho các chính quyền trong khu vực vay hàng tỉ đô la), Volcker từ bỏ mối duyên ngắn ngủi với chủ nghĩa trọng tiền. Fed mất vài năm sau đó để dọn dẹp các thảm họa tài chính do chính sách thắt chặt tiền tệ gây ra. Ngày nay, với tuyên ngôn cứng rắn và một loạt các đợt tăng lãi suất rất cao, Fed dưới thời Powell dường như đang cố gắng chứng tỏ họ cũng sẵn sàng làm mọi điều cần thiết để giảm lạm phát. Nhưng Volcker huyền thoại, siêu anh hùng chống lạm phát, thường bỏ qua cái giá đắt phải trả trong cuộc chiến đó. Nhiều năm sau, trong những lần trò chuyện để viết hồi ký, ông vẫn đau đáu câu hỏi liệu mình có thể làm khác đi và giảm tổn hại cho người lao động và nền kinh tế Mỹ hay không. “Lúc đó, tôi có nhận ra lãi suất có thể tăng cao như thế nào trước khi chúng tôi có thể tuyên bố thành công hay không? Không,” ông viết trong hồi ký. “Từ góc nhìn ngày nay, có cách nào tốt hơn không? Tôi không biết — ngày đó không, bây giờ cũng không.”
Bài kiểm tra thực sự với Powell và đồng nghiệp là liệu họ có thể kiên định khi nền kinh tế và hệ thống tài chính bắt đầu có dấu hiệu căng thẳng nghiêm trọng. Volcker nói ông ủng hộ việc Powell làm chủ tịch Fed, vì Powell xuất thân từ ngành tài chính và bộ Tài chính — điều Volcker tin sẽ giúp Powell hiểu rõ hơn ảnh hưởng thực tế của các chính sách tiền tệ. Tôi nghĩ Volcker sẽ thúc giục Powell “cứ tiếp tục” vì nếu không sẽ mất niềm tin mà Volcker phải rất vất vả khôi phục.