Vấn đề của các ngân hàng địa phương Mỹ: Quá nhỏ nên khó thành công

Các bất ổn trong hệ thống ngân hàng của Mỹ đến từ một vài ngân hàng địa phương có quy mô nhỏ.

Mark Pernice minh họa cho Bloomberg Businessweek

Mark Pernice minh họa cho Bloomberg Businessweek

Tác giả: Paige Smith, Max Reyes và Jonnelle Marte

17 tháng 05, 2023 lúc 11:31 AM

Trước cuộc khủng hoảng năm 2008, những hãng tài chính khổng lồ được cứu trợ bên bờ vực phá sản được cho là quá lớn không thể sụp đổ, và giới hoạch định chính sách và quản lý tập trung vào luật lệ để đảm bảo những ngân hàng đấy hoạt động an toàn hơn. Trong khi đó, ít ai để ý, một vấn đề khác đang xuất hiện: Sẽ ra sao nếu một số ngân hàng quá nhỏ không thể phát triển được?

“Nhỏ” là tính từ có tính tương đối. Những hỗn loạn gần đây đe dọa ngành ngân hàng tập trung vào các ngân hàng khu vực, cách phân loại như vậy tùy theo quan điểm, có thể là tổ chức với tổng tài sản 10 tỉ đô la Mỹ cho tới ngân hàng như Silicon Valley (SVB) và First Republic, tổ chức có tổng tài sản khoảng 200 tỉ đô la Mỹ khi sụp đổ. Với tài sản như vậy đủ để ngân hàng lọt vào danh sách 20 ngân hàng lớn nhất nước Mỹ, nhưng còn xa mới vào được tốp bốn, nơi các ngân hàng có tổng tài sản lên tới hàng ngàn tỉ đô la. Tổng tài sản gần 4.000 tỉ đô la của JPMorgan Chase & Co chỉ nhích nhẹ khi họ mua phần còn lại của First Republic từ tay cơ quan Bảo hiểm tiền gửi liên bang (FDIC).

first-republic-bank
Trụ sở First Republic Bank ở San Francisco. Nguồn: Bloomberg

Cũng có hy vọng là bóng đen bao phủ các ngân hàng địa phương sẽ được xua tan sau khi vấn đề của First Republic giải quyết xong. Xét cho cùng, cả First Republic và SVB đều có các vấn đề đặc thù, đáng chú ý nhất là mức tiền gửi không được bảo hiểm cao mà khách hàng rất dễ rút ra ngay khi họ có chút lo lắng. Nhưng thị trường vẫn chưa thể xóa hết được lo âu. Chỉ số Ngân hàng địa phương KBW giảm 30% từ đầu năm nay, và giảm 9,5% kể từ ngày 1.5.2023, khi diễn ra vụ mua lại của JPMorgan.

Không chỉ có cổ đông ngân hàng bất an. Ngân hàng địa phương là nguồn tài chính then chốt cho doanh nghiệp nhỏ, nơi cung cấp gần một nửa số việc làm trong lĩnh vực tư nhân. Nếu các ngân hàng địa phương yếu, doanh nghiệp nhỏ có thể càng khó vay tiền và gia tăng quyền lực cho ngân hàng lớn hoặc các ngân hàng nhỏ sẽ buộc phải sáp nhập. Nhiều người “không đánh giá đúng ý nghĩa của ngân hàng khu vực với hệ sinh thái tài chính của chúng ta,” cựu chủ tịch FDIC Jelena McWilliams nói trong một cuộc phỏng vấn với Bloomberg Television.

Khi nhìn lại, lãi suất thấp, nhiều gói kích thích chi tiêu trong nền kinh tế Mỹ chẳng khác gì đánh bẫy các ngân hàng thiếu cảnh giác. Với nhiều doanh nghiệp, lãi suất thấp và khách hàng dư tiền không khác gì ta chơi trò chơi ở cấp độ dễ. Nhưng với chủ ngân hàng, đó là trò chơi ở cấp độ khó. Tất cả tiền bạc mà nhà nước tung ra để hỗ trợ dân chúng trong đại dịch phải chảy vào đâu đó, và rất nhiều tiền đổ vào tài khoản ngân hàng. Do lãi suất lúc đó quá thấp, nhiều ngân hàng không chịu áp lực gì và cứ duy trì mức lãi suất còm cõi nhất với người gửi tiền.

Nhưng có một vấn đề khác trong phần tiền ra của bảng cân đối kế toán: Lãi suất thấp khiến ngân hàng khó thu lợi nhiều từ cho vay hay đầu tư chứng khoán. Nhu cầu vay tiền cũng èo uột, do doanh nghiệp và người tiêu dùng đang được hỗ trợ từ các gói kích thích kinh tế. Nên một số ngân hàng chọn hướng tăng trưởng bằng chuyên biệt hóa. First Republic đi vào thị trường ngách là khách hàng giàu có, còn SVB cung cấp dịch vụ tài chính cho các công ty công nghệ khởi nghiệp. Với khoản tiền gửi của khách hàng, các ngân hàng này thường chọn phương án an toàn – hoặc là họ nghĩ nó an toàn - bằng cách mua trái phiếu chính phủ hay cho khách hàng giàu có với điểm tín dụng tốt vay thế chấp mua nhà. Nhưng các công cụ này có thời gian đáo hạn dài hơn và khiến các ngân hàng gặp rủi ro lãi suất.

svb-o-california
Khách hàng xếp hàng bên ngoài trụ sở chính SVB ở California. Nguồn: Bloomberg

Khi mức lãi suất tăng lên, những tài sản dài hạn có lãi suất thấp hơn giảm giá trị. Điều quan trọng là một số ngân hàng đặt cược rằng lãi suất sẽ không tăng quá cao và quá nhanh - và SVB và First Republic đã đặt cược sai hoàn toàn. Năm 2022, cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) chuyển hướng sang chống lạm phát và bắt đầu tăng mạnh lãi suất từ mức gần zero. Tới tháng 5.2023, ngân hàng trung ương này đã nâng mức lãi suất tiêu chuẩn của họ lên trên 5% lần đầu tiên kể từ năm 2007.

Những động thái của Fed khiến các ngân hàng ghi nhận khoản thua lỗ trên sổ sách 620 tỉ đô la Mỹ tính tới cuối năm 2022. Nếu một ngân hàng có thể giữ lại số chứng khoán đang thua lỗ đó chờ tới ngày đáo hạn, thường kế hoạch là vậy, thì không sao. Nhưng nếu người gửi tiền bắt đầu rút tiền thật nhanh, các ngân hàng chịu rủi ro lãi suất quá lớn - thường được Phố Wall gọi là rủi ro thời gian đáo hạn bình quân - có nguy cơ phải bán lỗ những tài sản đấy, khiến họ lâm vào cảnh mất thanh khoản. Mùa xuân năm nay là lúc tiền gửi ngân hàng chịu áp lực như thế, khi khách hàng bắt đầu chú ý đến các khoản thua lỗ sổ sách của một số ngân hàng - hoặc đơn giản là người gửi quyết định chuyển tiền sang nơi có lãi cao hơn khi lãi suất tăng. Các ngân hàng dựa vào mối quan hệ họ đã gầy dựng với các khách hàng chuyên biệt chợt thấy rằng lòng trung thành chỉ là chuyện phù du. “Chẳng khác gì một bài học vỡ lòng về ngân hàng,” Darius Palia, giáo sư tài chính ở đại học Rutgers, bình luận. “Tại sao giới chủ ngân hàng và giới chức quản lý không nghĩ rằng họ sẽ mắc kẹt trong tình trạng mất cân đối thời gian đáo hạn này?”

Những ngân hàng siêu lớn cho tới giờ tránh được các vấn đề nêu trên. Một phần là do họ bị giám sát chặt hơn: Những ngân hàng lớn nhất phải tuân thủ những quy định và giám sát ngặt nghèo hơn. (Một số quy định này lẽ ra cũng áp dụng cho SVB và First Republic, nếu như không bị loại bỏ đi trong đợt cải cách luật Dodd-Frank 2010.) Các ngân hàng ở Phố Wall thường cũng có đủ vốn để bù đắp các khoản lỗ, và lợi thế quy mô cùng nhiều cách khác để chuyển các tài sản lợi suất thấp khỏi bảng cân đối kế toán của họ, chẳng hạn như chứng khoán hóa hay bán tài sản. Một số ngân hàng địa phương lớn hơn cũng có thể vững vàng hơn, theo lời Joseph Mevorah, giám đốc điều hành cấp cao ở Empire Valuation Consultants.

Nhưng nhiều ngân hàng nhỏ hơn có vẻ đang mắc kẹt trong một vòng xoáy nghi kỵ và lạc quan thận trọng. Amar Reganti, cựu quan chức bộ Tài chính Mỹ hiện là giám đốc ở Wellington Management, so sánh tình hình giống như “một đám cháy chậm cứ vài tuần lại bùng lên một lần.” Trình tự bắt đầu khi giá cổ phiếu một ngân hàng lao dốc: Tin đồn lan đi, tiền gửi vẫn tương đối ổn định, rồi mọi thứ lắng xuống cho tới khi lo âu lại nổi lên. “Những hành động liên quan tới giá cả gần như không còn liên quan gì tới việc chuyện gì đúng, chuyện gì sai,” Reganti nói.

Một cách để hạ nhiệt là Quốc hội Mỹ thông qua quyết định tăng mức trần bảo hiểm tiền gửi, hiện là 250 ngàn đô la. Dù số tiền đó đủ lớn để bảo hiểm cho phần lớn các tài khoản cá nhân, nhiều doanh nghiệp có tài khoản tiền gửi lớn hơn mức trần để duy trì chi phí hoạt động. Và xét tới cùng, khi SVB và ngân hàng Signature (New York) sụp đổ cùng lúc vào cuối tuần, chính quyền đã cứu tất cả những người gửi tiền. “Tôi thấy mức trần bảo hiểm theo nghĩa nào đó giống như xương cụt của người vậy,” tức dấu tích từ một thời kỳ đã lạc hậu, Robert Hockett, giáo sư trường Luật Cornell, ví von.'

signature-bank
Chi nhánh của Signature Bank ở New York. ẢnhEd Jones/Getty Images

Những người khác nói tăng hay bãi bỏ mức trần bảo hiểm tiền gửi có thể khuyến khích hành vi rủi ro hơn ở các ngân hàng. “Các nước có những hệ thống thoáng hơn gặp khủng hoảng ngân hàng thường xuyên hơn,” và những cuộc khủng hoảng đó cũng nghiêm trọng hơn, theo Patricia McCoy, giáo sư trường Luật Boston College, chuyên về quy định tài chính. Bà cho rằng tốt hơn là tập trung vào những quy định giúp các ngân hàng không vướng vào rắc rối ngay từ đầu.

Bộ đệm vốn lớn hơn sẽ hữu ích hơn. Ngân hàng có thể tích lũy vốn theo nhiều cách, bao gồm tăng lợi nhuận (hiện giờ không dễ), giảm cổ tức, hay huy động tiền từ nhà đầu tư. Yêu cầu tăng vốn có thể bị nhìn nhận là ngân hàng đang gặp căng thẳng, nên phải tiến hành thận trọng, và không phải là giải pháp nhanh chóng.

Một cuộc tranh luận khác là liệu những hỗn loạn ở lĩnh vực ngân hàng có phải là kết quả từ động thái đẩy lãi suất lên quá mạnh của Fed, hay chỉ là thực tế xấu xí khó tránh của chính sách thắt chặt tiền tệ. “Rất nhiều những gì đang diễn ra chính xác là điều ta lẽ ra phải nghĩ tới nếu là một người hoạch định chính sách,” Seth Carpenter, kinh tế gia trưởng toàn cầu của Morgan Stanley, nói trong một hội thảo gần đây do Fed New York tổ chức. Nhưng ông cũng cẩn trọng cảnh báo: “Liệu còn yếu tố ngoại sinh nào không? Tôi nghĩ đó là câu hỏi thực sự giúp giải thích điều gì có thể trở nên trục trặc.” Khi các ngân hàng căng thẳng, chúng có thể sụp đổ theo những cách không thể đoán trước.

Theo Bloomberg

Theo phattrienxanh.baotainguyenmoitruong.vn

https://phattrienxanh.baotainguyenmoitruong.vn/van-de-cua-cac-ngan-hang-dia-phuong-my-qua-nho-nen-kho-thanh-cong-51357.html

#hệ thống ngân hàng Mỹ
#SBV
#First Republic Bank
#Silicon Valley Bank
#FDIC
#Fed
#trần bảo hiểm tiền gửi

Đăng ký nhận bản tin miễn phí

Gói đăng ký

Liên hệ

Hợp tác quảng cáo

Chăm sóc khách hàng: (028) 888 90868

Email: cs@bloombergbusinessweek.vn

Giấy phép thiết lập trang thông tin điện tử tổng hợp trên mạng số 30/ GP-STTTT do Sở Thông Tin và Truyền Thông thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 24/12/2024

Chịu trách nhiệm nội dung: Ông Võ Quốc Khánh

Trụ sở: Lầu 12A, số 412 Nguyễn Thị Minh Khai, phường Bàn Cờ, Thành phố Hồ Chí Minh

Điện thoại: (028) 8889.0868

Email: bientap@bloombergbusinessweek.vn

© Copyright 2023-2025 Công ty Cổ phần Beacon Asia Media